Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hoá người sản xuất, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định, hay nói cách khác: Sự phân công lao động xã hội là cách điều chỉnh hạn chế một cách thích ứng những cá nhân vào những lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù.
Tiền đề vật chất của sự phân công lao động trong xã hội là số lượng dân cư và mật độ dân số.phải có một mật độ dân số nào đó để có thể phát triển nột cách thuận lợi cho những giao dịch xã hội, cũng như để phối hợp các lực lượng nhờ thế mà năng xuất lao động tăng lên, khi số lượng công nhân tăng lên( do dân số tăng lên ) thì sức sản xuất của xã hội càng tăng lên theo tỷ lệ kép của sự tăng lên đó, nhân với hiệu quả của sự phân công lao động.
Phân công lao động hợp lý
Sự phân công lao động được hình thành khi có sự phân tán tư liệu sản xuất vào tay nhiều người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau. Sự phân công lao động xã hội xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của xã hội và đạt những người sản xuất hàng hoá độc lập ” đối diện ” với nhau, những người này chịu sự tác động rất lớn của quy luật cạnh tranh.
Cơ sở của mọi sự phân công ao động phát triển là lấy trao đổi hàng hoá làm mỗt giá và có sự tách rời giữa thành thị và nông thôn.
Đối với sự phân công lao động có một quy tắc chung là :puyền lực càng ít chi phối sự phân công lao động trong xã hội bao nhiêu, thì sự phân sự phân công lao động trong xí nghiệp sản xuất ngày càng phát triển bấy nhiêu, và ở đấy nó lại càng phụ thuộc vào quyền lực của một cá nhân.
Sự phân công lao động trong xã hội làm cơ sở chung cho mọi nền sản xuất hàng hoá, chính sự phân công lao động trong xã hội làm cho sức lao động trở thành hàng hoá.
Sự phân công lao động đặt cơ sở cho việc hình thành những nghề nghiệp chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm nâng cao sức sản xuất.
Sự phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môm hoá đặc trưng sẽ là yếu tố quyết định sự khai thác có hiệu quả và phát huy thế mạnh của vùng. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một trình độ nào đó thì sẽ dẫn đến sự phân công lao động ở tầm vi mô- các xí nghiệp, các hãng sản xuất – điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản phẩm bị chia nhỏ,sản phẩm được hoàn thiẹn về chất lượng, dễ dàng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật .Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm việc sản xuất đi vào chuyên môn hoá, nâng cao tay ngề của người sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
Khi sản xuất hàng hóa ra đời, phát triển đến mức cao điển hình là ở xã hội tư bản thì đòi hỏi sự phân công lao động sâu sắc để đi vào chuyên môn hóa cao, đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của nền kinh tế thị trường, từ trước tới nay trong xã hội đã xuất hiện ba lần phân công lao động xã hội lớn :
Đối với trong nước : tất yếu phải tiến hành phân công lao động xã hội trên phạm vi cả nước cũng như từng ngành, từng cơ sở. Sự phân công lao động xã hội trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường cần chú trọng các quy luật:
Tỷ lệ và số tuyệt đối của lao động trong nông nghiệp giảm xuống, tỷ lệ và số tuyệt đối của lao động trong công nghiệp tăng lên.
Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng lên và chiếm phần lớn trong tổng lao động xã hội.
Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất ( dịch vụ, thương nghiệp ….) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất .
Trong những năm trước mắt, ở nước ta hiện nay việc phân công lao động xã hội cần phải tiến hành trên tất cả các địa bàn. Tiến hành sắp xếp, phân bố lại chỗ hoặc chuyển một bộ phận từ nơi này sang nơi khác để xây dựng các vùng kinh tế mới. Tuy nhiên, chúng ta cần đặc biệt chú trọng ưu tiên cho việc sắp xếp, điều chỉnh lại chỗ vì điều đó cho phép từng địa phương, từng đơn vị cơ sở tự khai thác hết tiềm năng ,những thế mạnh sẵn có của đơn vị mình, đồng thời từng bước hình thành các cụm kinh tế – kỹ thuật – dịch vụ nông thôn cũng như ở thành thị.
Đối với quốc tế: Để tham gia và phân công lại lao động xã hội cả trên mối quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta cần hiểu rõ những đặc điểm và xu hướng hiện đại của nền kinh tế thế giới, đó là những đặc điểm sau: Nền kinh tế thế giới là một thể thồng nhất , bao gồm các nền kinh tế khu vực và quốc gia rất đa dạng , phát triển không đồng đều, chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại , đang diễn ra quá trình quốc tế hoá kinh tế , cụ thể là :
Đẩy mạnh sự phân công lao động giữa các khu vực trên thế giới và giữa các quốc gia trong từng khu vực .
Tăng cường hợp tác và nhất thể hoá kinh tế thế giới, đặc biệt là phạm vi từng khu vực
Là một quốc gia phát triển, Việt Nam có những lợi thế can bản để có thể tham gia tích cực vào phân công lao động khu vực và quốc tế. Những lợi thế đó trước hết là: Vị trí địa lý thuận lợi : Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, tự nhiên Việt Nam rất phong phú và đa dạng, khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ ở Tây á, Đông phi, Tây phi. Đặc điểm này có tác động sâu sắc đến cơ cấu, quy mô và hướng phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Việt Nam nằm ở rìa đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam á có vùng biển chủ quyền rộng lớn và giàu tiềm năng, dễ dàng phát triển kinh tế – thương mại, văn hoá và khoa học kỹ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nằm trong khu vực diễn ra các hoạt động sôi động nhất thế giới trước thế kỷ 21, các nước ASEAN mà Việt Nam là thành viên chính thức kể từ tháng 7/95 đang ngày càng chiếm địa vị cao trong nền kinh tế thế giới.
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng. Nguồn tài nguyên nhân văn phong phú bao gồm bản thân con người và hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc. Đường lối đổi mới và chính sách mở cửa do Đảng ta đề ra từ đại hội thứ sáu đã mang lại kết quả rất uan trọng, tạo ra môi trường thuận lợi để Việt Nam tham gia ngày càng tích cực vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế, nhanh chóng hoà nhập vào thị trường quốc tế. Để nâng cao vai trò và vị trí của Việt Nam trong hệ thống phân công lao động khu vực quốc tế, đòi hỏi phát huy tinh thần tự lục tự cường và những lợi thế nói trên.
Thu Hà VietQ.vn