Những thách thức trong chuyển giao công nghệ

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, trong giai đoạn 2010-2017, Việt Nam có 115 hợp đồng chuyển giao công nghệ được kí kết với nhiều nước có nền công nghiệp phát triển trên thế giới, với tổng giá trị ước tính lên tới 447.000 tỷ đồng. Hiệu quả của các ngành công nghiệp mới, công nghệ mới của các doanh nghiệp FDI đã giúp nhiều thành phần kinh tế của Việt Nam có công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, đến nay, việc chuyển giao công nghệ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ trong nước.

Mặc dù Việt Nam đứng thứ 50 trong số 141 quốc gia được đánh giá bởi Chỉ số năng lực cạnh tranh công nghiệp của UNIDO năm 2016, tăng 44 bậc so với năm 1990, tuy nhiên, trong khối ASEAN-5, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines.

Theo khảo sát hàng năm do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI, các doanh nghiệp FDI chỉ mua khoảng 26,6% thiết bị đầu vào từ các doanh nghiệp Việt Nam, phần còn lại được nhập từ công ty mẹ hoặc từ nước ngoài. Điều này là do hầu hết các doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ hạn chế việc chuyển giao công nghệ tiên tiến cho các doanh nghiệp địa phương như mong đợi và cam kết.

Về chất lượng công nghệ, mặc dù công nghệ chuyển giao cho Việt Nam phần lớn bằng hoặc cao hơn mức có sẵn trong nước, nhưng nó chỉ đạt trình độ công nghệ trung bình hoặc trung bình so với các nước trong khu vực. Trên thực tế, khoảng 80% các dự án FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% sử dụng công nghệ thấp và lạc hậu và chỉ 5-6% sử dụng công nghệ cao.

Cho đến nay, Chính phủ đã ban hành một số tài liệu chính sách nhằm ngăn chặn việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và sử dụng nhiều vật liệu và ô nhiễm môi trường vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư. Việc kiểm soát các thiết bị và công nghệ đã qua sử dụng đã dần được thắt chặt. Thông tư số 23/2015/TT-BKH & CN quy định rằng máy móc, thiết bị và dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng phải đáp ứng các điều kiện về tuổi của thiết bị không quá 10 năm và đã được sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn G7 an toàn, tiết kiệm năng lượng và môi trường.

Tuy nhiên, việc kiểm soát nhập khẩu máy móc thiết bị vẫn gặp nhiều khó khăn. Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trong quá khứ, việc đánh giá công nghệ tương ứng với giai đoạn quyết định đầu tư và giai đoạn quyết định đầu tư chưa được xác định rõ ràng. Đặc biệt, không có cơ chế quản lý nhập khẩu công nghệ ngoài danh sách hạn chế nhập khẩu.

Để tăng cường thẩm định công nghệ cho các dự án đầu tư, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 đã dành một chương về công việc này, trong đó các điều khoản bổ sung như mở rộng đối tượng của các dự án đầu tư cần thiết để thẩm định, nhận xét về công nghệ trong mỗi dự án thời gian quyết định chính sách đầu tư và quyết định đầu tư; Các biện pháp quản lý cho các trường hợp nhà đầu tư điều chỉnh hoặc thay đổi nội dung công nghệ đã được đánh giá; Hoạt động kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện; Nội dung giải thích công nghệ và nội dung thẩm định công nghệ tương ứng với từng giai đoạn quyết định về chính sách đầu tư và thời gian quyết định đầu tư của dự án; Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thẩm định hoặc nhận xét về công nghệ.

Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đề xuất và điều chỉnh hệ thống các văn bản pháp lý liên quan để có một hành lang pháp lý đồng bộ về thẩm định công nghệ trong các dự án đầu tư. Đặc biệt, Bộ cho rằng cần xây dựng chính sách nhập khẩu công nghệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.

Văn phòng NSCL biên dịch

Tin mới