Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam, niên vụ 2015-2016, có khoảng 40 nhà máy đường hiện đang hoạt động, diện tích mía các nhà máy ký hợp đồng bao tiêu là 257.546 ha, sản lượng ép là 15,76 triệu tấn và sản lượng đường đạt 1,56 triệu tấn. Tổng nguồn cung đường dự kiến đạt khoảng 1,735 triệu tấn (bao gồm sản xuất 1,5 triệu tấn, tồn kho 0,1 triệu tấn, nhập khẩu 0,135 triệu tấn) và tổng lượng tiêu thụ trong nước khoảng 1,5 triệu tấn. Cả nước hiện có khoảng 240.000 ha mía có hợp đồng sản xuất bao tiêu với nông dân đạt năng suất bình quân trên 65 tấn/ha.
Thách thức do thiếu nguyên liệu
Hiện mới bước vào niên vụ mới, song không ít doanh nghiệp đã lo ngại thiếu nguồn mía nguyên liệu để ép trong thời gian tới. Đặc biệt là các nhà máy đường trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, bởi toàn vùng vụ này chỉ còn hơn 42.200 ha mía, giảm hơn 6.000 ha so với vụ mía trước và giảm khoảng 60.000 ha so với năm 2000.
Trước đây, do thiếu nguyên liệu, Nhà máy đường Kiên Giang phải bán di chuyển về Tây Ninh. Trong số 9 nhà máy đường còn lại tại đồng bằng sông Cửu Long, khả năng sẽ có thêm 1-2 nhà máy đường ngừng hoạt động chuyển đi nơi khác do thiếu nguyên liệu để hoạt động.
Thách thức từ sản phẩm đường nhập khẩu từ Thái Lan
Theo thống kê của Hiệp hội Mía đường Việt Nam, mỗi năm có khoảng nửa tỷ tấn đường nhập lậu vào Việt Nam, chủ yếu từ Thái Lan, do giá rẻ hơn, mà chất lương lại cao hơn so với đường của các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể, ở Thái Lan, giá mía đưa vào chế biến là 30-35 USD/tấn, giá nguyên liệu mía trong giá thành sản xuất đường khoảng 6.000-7.000 đồng/kg. Trong khi đó, ở Việt Nam, giá mía đưa vào chế biến từ 800.000-1.000.000 đồng/tấn (40-45 USD), giá nguyên liệu mía trong giá thành sản xuất đường là 8.000-10.000 đồng/kg. Như vậy, chỉ riêng về chi phí cho mía nguyên liệu, Việt Nam đã cao hơn Thái Lan khoảng 2.000-3.000 đồng/kg.
Đặc biệt, thách thức sẽ ngày càng lớn hơn, nguy cơ mất hết thị trường nội địa, khi thuế suất nhập khẩu đường từ các nước ASEAN giảm xuống còn 5% vào năm 2018. Khi đó, hàng rào bảo hộ dần được xóa bỏ, đường và sản phẩm sau đường của các nước ASEAN, nhất là của Thái Lan sẽ không còn phải nhập lậu nữa, mà có thể đường hoàng vào thị trường Việt Nam.
Muốn tồn tại, phải thay đổi
Với các thách thức bên trong (thiếu nguồn nguyên liệu, hàng loạt yếu kém nội tại về giống, công nghệ, thị trường tiêu thụ, chất lượng…) và bên ngoài (cạnh trạnh trực tiếp từ đường Thái Lan) trong vài năm tới, các nhà máy đường Việt Nam có nguy cơ sẽ bị chèn ép nặng nề, thậm chí bị phá sản
Để ngành mía đường có thể trụ vững, theo ông Phạm Hồng Dương, Chủ tịch Ủy ban Mía đường thuộc Tập đoàn TTC, chỉ có đầu tư vào khoa học kỹ thuật, công nghệ chế biến để giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh. Đặc biệt các doanh nghiệp phải liên kết với nông dân tạo thành những vùng nguyên liệu lớn. “Bên cạnh đó đầu tư sản xuất điện, phân bón sinh học từ bã mía, tận dụng các phụ phẩm khi sản xuất đường, để giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận”.
Cũng đưa ra lời khuyên cho doanh nghiệp, ông Phạm Quang Vinh, Giám đốc Nhà máy đường Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) cho biết, ở thị trường nội địa, hiện đa số các công ty chỉ sản xuất đường RS và chất lượng không ổn định, giảm nhanh trong quá trình bảo quản, đặc biệt ít được sử dụng trong các ngành công nghiệp và chế biến thực phẩm. Hơn nữa, thực tế sản lượng đường tinh luyện sản xuất trong nước không đủ cung cho ngành công nghiệp thực phẩm. Chính vì vậy, muốn cạnh tranh thì doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm
Văn phòng NSCL (tổng hợp)