Trong hoạt động của doanh nghiệp, năng suất và đổi mới là hai yếu tố chủ đạo cần được cải thiện. Hai yếu tố này rất quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả, quy mô và thời gian giao hàng của các công ty đa quốc gia và những tập đoàn hàng đầu, để có thể trở nhà cung cấp cho họ.
Đưới đây đánh giá năng suất của các doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài, và giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau, để tìm hiểu đâu là nguyên nhân ảnh hưởng tới năng suất.
So năng suất với các nước khác
Kết quả cho thấy năng suất ở doanh nghiệp Việt Nam không quá thấp so với các nước Châu Á khác, dù điều này có lẽ không đúng với các doanh nghiệp lớn. Năng suất lao động của Việt Nam khá cao, doanh nghiệp trung vị tạo ra khoảng 10500 USD giá trị gia tăng trên mỗi công nhân. Mức này tương đương với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, cao hơn Ấn Độ nhưng thấp hơn nhiều so với các nền kinh tế BRIC. Ước lượng phân bố năng suất lao động chỉ ra mật độ tập trung lớn nhất tại mức 8.000 USD và chỉ có ít doanh nghiệp tạo ra được hơn 60.000 USD giá trị gia tăng trên mỗi công nhân.
Chi phí nhân công ở Việt nam cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. Theo báo cáo, tiền công và tiền lương của doanh nghiệp trung vị Việt Nam ở mức khoảng 2.739 USD trên một lao động – cao khoảng gấp đôi so với Lào, Myanmar, Malaysia, và hơn khoảng 30% đến 45% so với Campuchia, Thái lan và Philippin. Doanh nghiệp trung vị của Việt Nam có đơn giá công lao động ở mức trung bình. Điều này cho thấy rằng chi phí lao động cao ở Việt Nam không tách rời khỏi mức năng suất.
So sánh giữa các doanh nghiệp trong nước
Về xuất khẩu, ở hầu hết các nước, những nghiên cứu hiện tại đã chỉ ra các doanh nghiệp xuất khẩu có năng suất lớn hơn các doanh nghiệp tương tự nhưng không xuất khẩu. Điều này có thể giải thích bởi thực tế là chỉ có các doanh nghiệp có năng suất lớn nhất mới có khả năng thâm nhập thị trường xuất khẩu (sự tự lựa chọn) và/hoặc các quy tắc trong hoạt động xuất khẩu trực tiếp có lẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực (học hỏi qua xuất khẩu). Tuy nhiên, sự khác nhau không đáng kể, cho thấy hiện trạng xuất khẩu không phải là yếu tố quyết định tới năng suất đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Về quy mô doanh nghiệp: Quy mô doanh nghiệp được đo lường bởi số lao động, yếu tố này thường có tương quan tỉ lệ thuận với năng suất lao động và mức độ thâm dụng vốn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, không có sự khác nhau ở mức có ý nghĩa thống kê về năng suất lao động giữa các doanh nghiệp trung vị của các nhóm doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn. Qua đây có thể thấy điểm yếu của các doanh nghiệp vừa và lớn, thường được cho là có năng suất lớn hơn các doanh nghiệp nhỏ.
Về sở hữu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhìn chung có năng suất cao hơn các doanh nghiệp trong nước ở các nước đang phát triển, điều này có thể giải thích bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua công ty mẹ dễ dàng tiếp cận với công nghệ và tài chính hơn. Mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tạo ra giá trị gia tăng trên mỗi công nhân lớn hơn các doanh nghiệp trong nước (13.100 USD so với 10.189 USD), nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
Dữ liệu điều tra doanh nghiệp mới nhất cho thấy, trong khi một nửa số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có chứng chỉ về chất lượng được quốc tế công nhận, như ISO 9001 về hệ thống quản lý chất lượng, thì chưa đến 10% doanh nghiệp trong nước có được các chứng chỉ này. Tuy nhiên, tỷ lệ này trong các doanh nghiệp có liên kết là gần ¼. Khi mà đầu vào nhập khẩu vẫn có chất lượng/giá tốt hơn hoặc sử dụng công nghệ tiên tiến hơn đầu vào trong nước, thì việc doanh nghiệp có liên kết ở Việt Nam cũng như các quốc gia so sánh phụ thuộc nhiều hơn vào đầu vào nhập khẩu cũng có thể là một yếu tố giúp doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao hơn. Sự phát triển năng động và cạnh tranh của khu vực tư nhân là vấn đề cốt lõi để Việt Nam đạt được mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng trong nước và tăng cường liên kết FDI.
Văn phòng NSCL