Từ lúc 9h – 11h hôm nay (11/9), Chất lượng Việt Nam online (VietQ.vn) tổ chức Chương trình Giao lưu trực tuyến “Nâng cao năng suất chất lượng: Gia tăng giá trị – chia sẻ thành công“.
Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệpViệt Nam đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21 tháng 5 năm 2010 và Bộ KH&CN được Chính phủ giao là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện, điều hành hoạt động của Chương trình và thực hiện 02 dự án chính gồm dự án Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và dự án Thúc đẩy hoạt động năng suất và chất lượng.
Một trong những mục tiêu mà Chương trình hướng đến là tạo bước chuyển biến rõ rệt về năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa chủ lực, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước… Trong đó, trọng tâm là xây dựng các mô hình điểm về áp dụng các công cụ cải tiến năng suất chất lượng, hệ thống quản lý tiên tiến và hỗ trợ nhân rộng kết quả mô hình điểm tới các doanh nghiệp.
Để tổng kết giai đoạn I của Chương trình sau 5 năm thực hiện, Chất lượng Việt Nam (Vietq.vn) tổ chức giao lưu trực tuyến “Nâng cao năng suất chất lượng: Gia tăng giá trị – chia sẻ thành công”.
Chương trình bắt đầu từ 9h – 11h hôm nay (11/9), nhằm cập nhật thông tin triển khai, quảng bá những thành tựu đạt được, chia sẻ những kinh nghiệm thành công của các doanh nghiệp tiêu biểu có dự án cải tiến năng suất chất lượng hiệu quả trong phong trào nâng cao năng suất chất lượng.
Tổng biên tập Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tặng hoa cho các khách mời tham gia chương trình giao lưu trực tuyến Ông Trần Văn Dư – Tổng biên tập Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tặng hoa cho các khách mời tham gia chương trình giao lưu trực tuyến
Trong chương trình sẽ có các khách mời:
+ Ông Ngô Quý Việt – Tổng cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
+ Bà Phạm Thu Giang – Phó vụ trưởng Vụ KHCN – Bộ Công Thương
+ Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam
+ Ông Nguyễn Huy Văn – Phó Tổng giám đốc Công ty CP Traphaco
Bạn đọc quan tâm, xin gửi câu hỏi về email: toasoan@vietq.vn hoặc truy cập http://vietq.vn/giao-luu-truc-tuyen/ để gửi câu hỏi tham gia chương trình.
BBT
NỘI DUNG BUỔI GIAO LƯU:
Bà có thể cho biết lý do một số doanh nghiệp thành công trong việc áp dụng các hệ thống quản lý và các công cụ cải tiến năng suất trong giai đoạn vừa rồi của Chương trình 712? (Trần Thị Dung – dungbabycat@gmail.com) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
-Thứ nhất là nhận thức và cam kết của lãnh đạo doanh nghiệp, cam kết phải hiểu không chỉ bằng lời mà còn thể hiện ở hành động, tạo cơ chế, nguồn lực hỗ trợ phát triển dự án.
-Thứ hai là nền tảng quản lý chất lượng của doanh nghiệp, sự lựa chọn các giải pháp cải tiến phụ thuộc vào điều này, nền tảng cần tương xứng với các giải pháp yêu cầu.
-Thứ ba là sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ nhân viên tại các doanh nghiệp trong việc triển khai áp dụng các hệ thống, công cụ cải tiến Năng suất chất lượng.
-Thứ tư, yếu tố nhân lực triển khai là các chuyên gia tư vấn và giảng viên hỗ trợ cho các dự án có kinh nghiệm, năng lực biết lựa chọn và linh hoạt sáng tạo trong các giải pháp đạt sự đồng thuận của doanh nghiệp.
-Thứ năm, sự phối hợp các cơ quan báo chí nỗ lực trong việc tuyên truyền về các kết quả thành công của doanh nghiệp tạo thuận lợi cho dự án có bước khởi đầu tốt đẹp.
Thưa Bà, với số lượng doanh nghiệp lớn như hiện nay, những doanh nghiệp nào được ưu tiên lựa chọn làm mô hình điểm để áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến? (Thái Hoàng – thaihoang21@gmail.com) Bà Phạm Thu Giang – Vụ phó Vụ KHCN – Bộ Công Thương:
Trong Dự án “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp”, với nhiệm vụ số 3 đã có quy định về các ngành công nghiệp chủ lực: dệt may, da giày, sản phẩm nhựa, ngành thép, ngành hóa chất, ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp năng lượng, sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm, nội dung số.
Về mô hình, chúng tôi ưu tiên lựa chọn xây dựng các mô hình điểm áp dụng các hệ thống quản lý có tính bắt buộc. Ví dụ:
– ISO 50001: Theo quy định của Luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, bắt buộc đối với các doanh nghiệp tiêu thụ năng lượng trọng điểm, các ngành có mức tiêu thụ năng lượng lớn.
– Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu (Ví dụ như TS 16949 đối với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ muốn tham gia vào chuối cung ứng toàn cầu của các nhà sản xuất ô tô…
Trong thời gian tới, chúng tôi ưu tiên hỗ trợ xây dựng các mô hình áp dụng các công cụ cải tiến phi tiêu chuẩn (các hệ thống quản lý sẽ do doanh nghiệp tự làm). Hàng năm, chúng tôi đều có các thông tin để các doanh nghiệp đăng ký thực hiện nội dung dự án thông qua mạng của Bộ Công Thương. Những doanh nghiệp quan tâm có thể theo dõi để tiếp cận.
– DN tham gia vào xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến trong điều hành, sản xuất… điều này đã mang lại lợi ích như thế nào đối với hoạt động và phát triển của DN? ( Phát Tài – taiphatnguyenvan@hipp.vn ) Ông Nguyễn Huy Văn – Phó Tổng giám đốc Công ty CP Traphaco:
Hệ thống quản lý tiên tiến sẽ tạo ra sản phẩm như mình mong muốn và sự thống nhất cho toàn doanh nghiệp; hệ thống này tạo ra lực hướng tâm chung cho các bộ phận, phòng ban. Tất cả các bộ phận sẽ chung một mục tiêu, tạo ra sức mạnh cộng hưởng để tăng trưởng về kết quả sản suất kinh doanh, đảm bảo công ăn việc làm cho người ở. Quản lý chất lượng từ khâu đầu vào trong quá trình sản xuất đến nhập kho, xuất ra lưu thông trên thị trường. Khi xảy ra sự cố, sẽ nhanh chóng tìm ra nguyên nhân để khắc phục và làm giảm đi nhiều tỉ lệ hàng hỏng, hàng trả về. Ví dụ như doanh nghiệp Traphoco:Khi áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến tạo ra sự tăng trưởng bình quân từ 20-30%/ năm trong hàng chục năm, giảm tỉ lệ hàng hỏng, hàng kém chất lượng từ 1.5 – 2% xuống còn 0.25 – 0.5% .
Xin Bà cho biết, việc xây dựng TCVN, QCVN được Bộ Công Thương triển khai như thế nào trong giai đoạn I của Chương trình 712 và kết quả ra sao? (Mạnh Ninh – manhninh@gmail.com) Bà Phạm Thu Giang – Vụ phó Vụ KHCN – Bộ Công Thương:
Trong giai đoạn 1 của chương trình 712, Bộ Công Thương đã xây dựng được 33 QCVN và khoảng 10 QCVN đang trong quá trình thẩm định, tập trung vào các sản phẩm hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn. Đối với TCVN, tùy thuộc vào từng ngành ví dụ với ngành giấy, hiện nay đã có 90 TCVN, với ngành dệt may cũng đã có hơn 100 TCVN. Trên thực tế, việc xây dựng TCVN vẫn còn phụ thuộc vào mối quan tâm của từng ngành khác nhau nên số lượng TCVN của các ngành có khác nhau. Về mặt quản lý Nhà nước, chúng tôi quan tâm đến việc xây dựng TCVN, QCVN để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đảm bảo an toàn.
Ngoài các TCVN, mỗi ngành còn có Tiêu chuẩn cơ sở. Các doanh nghiệp có thể xây dựng và công bố tiêu chuẩn áp dụng của mình. Do vậy, tiêu chuẩn cơ sở có thể có mức chất lượng cao hơn TCVN hoặc Tiêu chuẩn khu vực.
Trong khuôn khổ chương trình 712 có rất nhiều những hoạt động đưa kiến thức năng suất cùng các giải pháp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đến doanh nghiệp. Vậy, hoạt động này đã đáp ứng được mục tiêu ban đầu đặt ra hay chưa? (Trịnh Minh Hiếu – hieutrinhminhdd@gmail.com) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
Tôi cho rằng chương trình đã đáp ứng được mục tiêu ban đầu là tập trung tuyên truyền nhận thức, đào tạo cơ bản và một phần chuyên sâu, tạo dựng đội ngũ chuyên gia về Năng suất chất lượng cho các Bộ, ngành và địa phương. Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp điểm đã tạo dựng được các mô hình thành công, từ đó có thể đúc kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng tới các doanh nghiệp khác trong nước
Xin bà cho biết, trong 5 năm triển khai đã có bao nhiêu doanh nghiệp ở nhiều ngành, nghề đồng hành cùng chương trình? ( Đào Văn Minh – vanminhdao11@gmail.com ) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
Riêng trong khuôn khổ dự án 2 thuộc chương trình (do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì), đã có gần 1.000 doanh nghiệp được hỗ trợ hướng dẫn các mô hình điểm, mô hình thử nghiệm và các mô hình nhân rộng, với hơn 7.500 lượt cán bộ được đào tạo trực tiếp tại doanh nghiệp về phương pháp áp dụng các hệ thống quản lý và công cụ nâng cao năng suất chất lượng.
Cho đến nay đã có hàng nghìn doanh nghiệp được tiếp cận với chương trình thông qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn về Năng suất chất lượng, các khóa đào nhận thức và đào đạo chuyên sâu về các hệ thống quản lý và công cụ nâng cao năng suất, tiếp cận thông tin qua các ấn phẩm, sách, tạp chí, qua các chương trình chia sẻ kinh nghiệm áp dụng qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo điện tử, báo giấy…
– Thưa bà, chương trình 712 có những mô hình điểm áp dụng cho các doanh nghiệp rất thành công, vậy cần phải có những giải pháp gì để tiếp tục nhân rộng những mô hình doanh nghiệp năng suất cao trên cả nước góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế? ( Trần Thùy Linh – linhcat@gmail.com ) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
Các mô hình điểm áp dụng cho các doanh nghiệp đã giải quyết một số vấn đề căn bản như: cách thức nhận biết và phương pháp giảm các lãng phí trong sản xuất như Lean, TPM, MFCA; áp dụng các hệ thống quản lý nhằm tiết kiệm năng lượng ISO 50001, giảm thiểu rủi ro thông qua áp dụng hệ thống quản lý an toàn thông tin ISO 27000, hiên thực hóa việc triển khai mục tiêu chiến lược của từng công ty thông qua áp dụng KPI…Trong thời gian tới chương trình 712 cần:
-Tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm với các doanh nghiệp trên toàn quốc để tuyên truyền các hoạt động và chia sẻ các mô hình doanh nghiệp thành công trong thời gian qua.
-Phối hợp các bộ ngành nhằm thúc đẩy cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và tuyên truyền sâu rộng hơn nữa.
-Tiếp tục cung cấp cấp thông tin kiến thức giúp các doanh nghiệp đánh giá được các điểm cần cải tiến và tìm cơ hội áp dụng các giải pháp.
Là doanh nghiệp tiêu biểu trong phong trào nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa, ông có những chia sẻ gì về thành công mà Traphaco đạt được từ Chương trình 712 của Chính phủ? (Thái Quang – quangtnhvtc@aof.edu.vn) Ông Nguyễn Huy Văn – Phó Tổng giám đốc Công ty CP Traphaco:
Thị trường cũng như thị hiếu của người tiêu dùng ngày nay có tốc độ thay đổi rất nhanh, kéo theo yêu cầu ngày nay càng cao về chất lượng sản phẩm. Để theo kịp thị trường doanh nghiệp cần phải liên tục đổi mới về quản lý, về công nghệ. Doanh nghiệp phải đặt được mục tiêu nâng cao năng suất làm việc và chất lượng sản phẩm dịch vụ. Năng suất ở đây không chỉ nên hiểu là bao nhiêu tấn lúa, bao nhiêu tấn gạo mà năng suất là hiệu quả trong làm việc từ lãnh đạo tới nhân viên, tăng hiệu quả công việc của từng vị trí sẽ tăng được năng suất của cả doanh nghiệp. Chúng tôi nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các chuyên gia TTNSV (Trung tâm năng suất Việt Nam) trước kia nay Viện NSVN (Viện năng suất Việt Nam), trung tâm Quacert của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ).
Xin ông cho biết qua 5 năm triển khai chương trình 712, cho đến nay, theo đánh giá của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng, thì các doanh nghiệp đã có sự thay đổi như thế nào về mặt nhận thức và các hoạt động cải tiến năng suất chất lượng ở doanh nghiệp đang được diễn ra như thế nào? (Minh Giang – giangmn@fpt.vn) Ông Ngô Quý Việt – Tổng cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng:
Thông qua các hoạt động của Chương trình, nhận thức của các cấp các ngành, các địa phương và đặc biệt là doanh nghiệp về năng suất, chất lượng đã được nâng lên rõ rệt. Thuật ngữ năng suất, chất lượng được xuất hiện nhiều hơn trong tư duy và hành động của các nhà lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là lãnh đạo và người lao động tại doanh nghiệp.
Chương trình đã hình thành, thúc đẩy được phong trào năng suất chất lượng trong phạm vi cả nước, thông qua đó huy động được nguồn lực của xã hội tập trung cho mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm hàng hoá chủ lực của nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, thương hiệu của doanh nghiệp, sản phẩm, hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong, ngoài nước.
Chương trình đã có những tác động ban đầu, tích cực đối với cộng đồng doanh nghiệp. Thông qua việc triển khai các dự án, Chương trình đã tạo được sự gắn kết hơn giữa khoa học – sản xuất – đời sống và doanh nghiệp đã được hưởng lợi trực tiếp từ Chương trình. Các doanh nghiệp đã nhận thức được đầy đủ hơn tầm quan trọng của năng suất chất lượng đối với sự tồn tại và phát triển trong thời kỳ hội nhập.
Chương trình 712 có nhiều lợi ích cho doanh nghiệp nhưng ở thời điểm ban đầu cũng có không ít những khó khăn trong việc triển khai chương trình. Vậy những giải pháp nào để phát huy kết quả đạt được và khắc phục khó khăn để chương trình 712 triển khai mạnh mẽ hơn trong thời gian tới? (Nguyễn Thành An – anthanhnguyen@gmail.com) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
Sự biến động của môi trường sản xuất kinh doanh trong thời gian qua, doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong tất cả các khâu, từ tăng giá nguyên liệu đến tiếp cận và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn từ kém năng lực cạnh tranh, chất lượng hàng hóa chưa ổn định, chưa hội nhập được với nền kinh tế toàn cầu. Việc thuyết phục được các doanh nghiệp bỏ thời gian và công sức cho hoạt động cải tiến năng suất, chất lượng không phải dễ dàng.
Mặt bằng chung về cơ sở hạ tầng cũng như trình độ quản lý, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhận thức của người lao động còn nhiều hạn chế.
Giải pháp trong giai đoạn tới:
-Cần tăng cường thêm công tác tuyên truyền phổ biến để chương trình trở nên sâu rộng giúp doanh nghiệp nhìn nhận thực tế lợi ích mà chương trình đem lại góp phần thúc đẩy sự lan tỏa các hoạt động nâng cao năng suất và trở thành mục tiêu then chốt của doanh nghiệp trong giai đoạn tới.
-Tăng cường nhân rộng các mô hình thích hợp đã được nghiên cứu đem lại thành công thiết thực cho các doanh nghiệp thời gian qua.
-Tiếp tục đầu tư nâng cao nghiên cứu hơn nữa các mô hình mới, áp dụng thử nghiệm; điều chỉnh và đánh giá để tìm kiếm các giải pháp thiết thực hỗ trợ tăng năng suất doanh nghiệp
-Tiếp tục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và mở rộng mạng lưới chuyên gia năng suất để đảm bảo nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dự án.
Theo Tổng cục trưởng, kết quả nổi bật nhất của Chương trình 712 giai đoạn I là gì? (Nguyễn Đức Huy – huykhcnhn@gmail.com) Ông Ngô Quý Việt – Tổng cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng:
Trong giai đoạn I, Chương trình đã đạt được những kết quả ấn tượng sau:
– 65% TCVN được công bố trong giai đoạn này hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế (so với khi bắt đầu Chương trình chỉ có gần 40%),
– Hàng nghìn doanh nghiệp được hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng; áp dụng các hệ thống quản lý ISO; áp dụng các cải tiến năng suất,
– 53 tỉnh, thành phố xây dựng, triển khai dự án Năng suất Chất lượng,
– Chất lượng sản phẩm hàng hóa, thương hiệu và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao,
– Bước đầu đào tạo được đội ngũ hoạt động chuyên nghiệp về năng suất và chất lượng…
Thưa ông Văn, là một doanh nghiệp có sự trải nghiệm với chương trình 712, vậy bài học kinh nghiệm mà doanh nghiệp rút ra là gì? Ông có lời khuyên gì cho các doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến vấn đề năng suất và chất lượng sản phẩm? (Ngọc Anh – ngocanh123@gmail.com)
Ông Nguyễn Huy Văn trong chương trình giao lưu trực tuyến do Chất lượng Việt Nam online (VietQ.vn) tổ chức
Doanh nghiệp cần phải coi trọng yếu tố năng suất và chất lượng, sự sống còn trong sự phát triển bền vững.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải: coi trọng, đầu tư vào đề án để triển khai nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm dịch vụ cụ thể trên toàn bộ hệ thống. Trong bối cảnh, các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn vì thế cần sự quyết tâm rất lớn của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và sự quyết tâm đó phải chuyển tải đến toàn bộ tập thể cán bộ nhân viên của công ty. Tạo ra sự đồng thuận và lực hướng tâm chung về mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Yếu tố quyết định để nâng cao năng suất của doanh nghiệp là nhận thức, vấn đề này được ghi nhận như thế nào trong giai đoạn vừa qua thưa bà? (Trương Văn Phong – vanphongvvn@gmail.com) Bà Nguyễn Thu Hiền – Phó Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam:
Quá trình hội nhập đã tạo ra những cơ hội, thách thức cũng như chứa đựng không ít rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thời gian qua, các doanh nghiệp đã từng bước chuẩn bị cho hội nhập như chuyên nghiệp hóa công tác quản lý, chú trọng vào chất lượng sản phẩm. Vấn đề nhận thức về nâng cao năng suất ở các doanh nghiệp đã phần lớn rất được coi trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh hiểu và nhận thức về năng suất chất lượng, cần phải biến nhận thức thành hành động, thu hút được sự tham gia của các cán bộ nhân viên trong hoạt động nâng cao năng suất như thế nào thì rất nhiều doanh nghiệp còn đang lúng túng.
Việc nâng cao năng suất cần có những giải pháp triển khai phù hợp, đầu tư chi phí cho đào tạo, cải tiến hệ thống máy móc thiết bị. Để có lợi ích lâu dài và thiết thực thì đôi khi doanh nghiệp vì những khó khăn trước mắt vẫn còn lúng túng, phân vân.
Khi thực hiện áp dụng các giải pháp cải tiến yêu cầu cán bộ, công nhân viên có những thay đổi liên quan đến thói quen, hành vi, phương pháp làm việc. Vì vậy, việc thay đổi nhận thức sẽ cần thời gian và sự nỗ lực của các nhà quản lý và chủ doanh nghiệp.
Thưa bà, tính đến nay có bao nhiêu doanh nghiệp được Bộ Công Thương triển khai hỗ trợ xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý và công cụ cải tiến năng suất? (Hoàng Hà – hahoang.93@gmail.com)
Bà Phạm Thu Giang – Vụ phó Vụ KHCN – Bộ Công Thương
Bộ Công Thương tính đến nay đã hỗ trợ 13 doanh nghiệp thực hiện các mô hình điểm về áp dụng các hệ thống và công cụ cải tiến năng suất chất lượng như sau:
– 1 mô hình áp dụng tiêu chuẩn API Spec Q1 và tiêu chuẩn API Spec A10 của Viện Dầu lửa Mỹ cho sản xuất G-HSR.
– 2 mô hình thí điểm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO/TS 16949 và 5 công cụ chính cho ngành công nghiệp phụ trợ sản xuất ô tô, xe máy và ngành cơ khí, 01 mô hình thực hiện năm 2015.
– 1 mô hình tích hợp hệ thống quản lý tích hợp ISO 9001: 2008, ISO 14001: 2004 và OHSAS 18001: 2007.
– 6 mô hình áp dụng tiêu chuẩn quản lý năng lượng ISO 50001, quản lý năng lượng đối với các doanh nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng lớn.
– 1 mô hình tích hợp các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2008 và ISO 14001: 2004/Cor.1: 2009 cho doanh nghiệp dệt may.
– 1 mô hình áp dụng công cụ phân tích tác động và những hình thức sai lôi (FMEA) tại một công ty ngành nhựa.
– 1 mô hình thí điểm áp dụng công cụ bộ công cụ (5S, Kaizen, QCC) cho 01 doanh nghiệp ngành chế biển khoáng sản.
Các mô hình trên đều đã có thành công. Trong tương lai, chúng tôi sẽ giới thiệu trên các tạp chí chuyên ngành để các doanh nghiệp của các ngành sản xuất có thể học tập.
Xin Tổng cục trưởng cho biết những nội dung chính của Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”? (Hoàng Thành Nam – hoangnam1977@gmail.com) Ông Ngô Quý Việt – Tổng cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng:
Thực hiện Khoản 2 Điều 6 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, với mục tiêu nâng cao nhận thức về năng suất và chất lượng, tạo bước chuyển biến rõ rệt về năng suất và chất lượng của các sản phẩm, hàng hóa chủ lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với các bộ ngành liên quan đã tiến hành xây dựng và ngày 21 tháng 5 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 712/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”.
Chương trình là tập hợp các nội dung, nhiệm vụ