Trữ lượng than lộ thiên khan hiếm, khai thác than ngày càng xuống sâu, nguy cơ về bục nước, khí, hệ số bóc đất, cung độ vận tải, các loại thuế, phí tăng… dẫn đến giá thành sản xuất than tăng cao, trong khi giá than, khoáng sản trên thị trường giảm mạnh là những khó khăn đối với ngành than hiện nay. Để đảm bảo an toàn trong sản xuất và khai thác đồng thời nâng cao sản lượng khai thác, mỗi doanh nghiệp đều tự mình tìm tòi và áp dụng công nghệ phù hợp và hiệu quả, điển hình như các doanh nghiệp sau đây:
Công ty than Khe chàm đã, áp dụng công nghệ khoan ép nước: do thực tế phải tổ chức thi công ở những điều kiện địa chất phức tạp, vỉa than mềm, rời, dễ tụt lở, áp lực mỏ lớn vì vậy nguy cơ mất an toàn do tụt nóc lò cao. Hơn nữa, khôi lượng vật tư, thiết bị lắp đặt cũng lớn. Trước những khó khăn, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của Công ty đã quyết tâm tìm ra các phương án kỹ thuật tối ưu, giải quyết triệt để các điểm yếu này. Công ty đã phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia để sử dụng công nghệ khoan ép nước nhằm tăng cường tính ổn định của gương than. Nhờ áp dụng công nghệ này, đã tăng được độ ẩm trong các gương than, tạo sự liên kết chặt, ổn định, đồng thời giảm nhiệt độ, giảm bụi trong lò v.v.
Từ hiệu quả việc áp dụng công nghệ khoan ép nước tại lò chợ 14.5-1D, đến nay Công ty đã triển khai nhân rộng, áp dụng cho 5 lò chợ và 6 gương lò đào tại vỉa 14.5, mỏ Khe Chàm III. Việc sử dụng thành công công nghệ này đã góp phần quan trọng giúp Công ty triển khai thành công CGH đồng bộ tại lò chợ 14.5-5.
Công ty Than Thống Nhất thuộc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam đã đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, cụ thể:
– Công ty đã sử dụng giá thủy lực vào khai thác. Công nghệ này giúp cho việc khai thác của đơn vị rất ổn định và giúp công nhân tránh được áp lực cao ở gương lò và nóc lò chợ gây mất an toàn. Ưu điểm của giá đỡ này là công nhân có thể rút cột và chốt hãm bên trên chứ không phải dùng tay như trước đây, vì vậy đã tăng hệ số an toàn lên rất cao và gia tăng năng suất lao động, giúp sản lượng khai thác tăng gấp 3 lần so với sử dụng giá đỡ hầm lò truyền thống. Nếu như trước đây mỗi lò chợ chỉ khai thác được bình quân từ 130.000-160.000 tấn than/năm, nay năng suất mỗi lò chợ đã đạt 243.000 tấn/năm.
– Ngoài ra, trong công tác đào lò, một số đường lò có khả năng thi công bằng máy xúc, công ty đã chủ động chọn tiết diện và vận tải phù hợp để đưa máy xúc vào một số gương lò hoạt động nhằm tăng tốc độ đào lò, nâng cao năng suất lao động và giảm sức lao động bằng cơ bắp cho công nhân.
– Đồng thời, lắp đặt các trạm khí nén cố định có năng suất lưu lượng khí nén cao ở khu vực sản xuất cũng như bổ sung các thiết bị khai thác có tính năng kỹ thuật cao, phù hợp điều kiện khai thác than hầm lò ở độ sâu như máy khấu than combai, xe khoan tự hành, vận chuyển than bằng băng tải.
Theo đó, công ty đã thay thế toàn bộ giá đỡ hầm lò đơn truyền thống sang công nghệ giá thủy lực di động ở tất cả 12 lò chợ với tổng đầu tư trên 2 tỷ đồng. Với công nghệ chống này, năng suất lao động bình quân của người lao động đã tăng đáng kể so với công nghệ cũ, đặc biệt, hệ số an toàn cũng được nâng lên rõ rệt. Hiệu quả sản xuất của công nhân cũng được nâng lên.
Phó Giám đốc Công ty Nguyễn Mạnh Toán cũng chia sẻ, trong điều kiện sản xuất không được thuận lợi, người lao động của công ty vẫn phấn đấu hoàn thành kế hoạch sản xuất hơn 1,6 triệu tấn than trong năm nay và đạt doanh thu gần 2.000 tỷ đồng.
Văn phòng NSCL (tổng hợp)