Bảo vệ môi trường ở các nhà máy nhiệt điện là một nội dung mà Bộ Công Thương đang chỉ đạo cho các tập đoàn, tổng công ty rà soát tại doanh nghiệp mình. Vừa qua Bộ Công thương đã có kết quả rà soát hiện trạng quản lý môi trường của toàn bộ các nhà máy nhiệt điện trên cả nước.
Với các nhà máy nhiệt điện, Báo cáo đánh giá tác động môi trường được Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định và phê duyệt. Tuy nhiên vẫn tồn tại dự án có thay đổi hạng mục công trình bảo vệ môi trường so với báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt, như Nhà máy nhiệt điện Duyên hải 1 – EVN. Vì thế, các dự án này chưa được Bộ Tài nguyên và môi trường cấp giấy xác nhận hoàn thành các công trình, hạng mục bảo vệ môi trường. Các vấn đề môi trường của nhà máy nhiệt điện bao gồm cả bụi, khí thải, chất thải rắn và nước thải. Kết quả của đợt rà soát của Bộ Công thương cho thấy:
Về bụi, các nhà máy đã lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP), hệ thống xử lý SO2 (FGD) và hệ thống SCR (Selective Catalytic Reduction) để xử lý NOx đạt QCVN về môi trường. Hiện chỉ có 02 nhà máy với công nghệ cũ nên không lắp đặt hệ thống xử lý SO2 (Phả Lại I và Ninh Bình). Với đặc thù công nghệ của nhiệt điện đốt than, khi khởi động lò hơi hoặc khi công suất lò thấp, các nhà máy phải đốt kèm dầu FO, HFO hoặc DO. Lúc này, hệ thống lọc bụi tĩnh điện không hoạt động được do nguy cơ cháy nổ, khi đó người dân sẽ quan sát thấy hiện tượng khói đen tại miệng ống khói.
Về chất thải rắn, hiện nay có 20 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành với lượng tro xỉ, thạch cao thải ra hơn 15,7 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, các nhà máy chưa tìm được giải pháp đầu ra cho tro xỉ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng tại Quyết định số 1696/QĐ-TTg về một số giải pháp thực hiện xử lý tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất phân bón để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng ngày 23 tháng 9 năm 2014. Vướng mắc lớn nhất là nhiều doanh nghiệp sản xuất xi măng, gạch không nung có khả năng sử dụng sử dụng tro, xỉ của nhà máy nhiệt điện làm nguyên liệu sản xuât nhưng lại không đủ điều kiện tiếp nhận tro xỉ theo quy định của Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 và thiếu các Quy chuẩn kỹ thuật đối với tro xỉ làm vật liệu xây dựng, vật liệu san nền.
Đối với nước thải của nhà máy nhiệt điện thì chủ yếu chỉ có nước làm mát bình ngưng là thải ra môi trường, còn lại các loại nước thải xỉ, nước thải từ hoạt động sản xuất của các phân xưởng trong nhà máy được thu gom và tái sử dụng không xả thải ra môi trường. Trong số các nhà máy nhiệt điện đốt than hiện nay chỉ có 2 nhà máy (Duyên hải 1 – EVN và Vũng Áng – PVN) sử dụng nước làm mát để xử lý khí thải SOx trước khi thải ra môi trường. Nước làm mát bình ngưng chỉ được châm clo để diệt khẩn với nồng độ dưới 1ppm trước khi đi vào hệ thống nên về bản chất, thành phần và tính chất của nước làm mát bình ngưng không thay đổi trước và sau khi làm mát, thải ra môi trường.
Từ thực trạng công tác quản lý môi trường ở các nhà máy Nhiệt điện, Bộ Công thương sẽ có những chỉ đạo cụ thể nhằm quản lý chặt chẽ với các nhà máy đang hoạt động cũng như đảm bảo các dự án đang xây dựng thực hiện đẩy đủ các cam kết về bảo vệ môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt. Thiết nghĩ, đã đến lúc các doanh nghiệp phải áp dụng hệ thống quản lý môi trường như tiêu chuẩn ISO 14001 trong hoạt động sản nhằm hướng đến sự phát triển một cách bền vững.
Văn phòng NSCL (tổng hợp)