Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách thừa nhận “sự khác biệt lớn về thu nhập bình quân đầu người ở các quốc gia chủ yếu phản ánh sự khác biệt về năng suất lao động”.
“Năng suất được kỳ vọng là động lực chính cho sự tăng trưởng và sự khỏe mạnh của nền kinh tế trong 50 năm tới, thông qua đầu tư đổi mới và vốn dựa trên tri thức”. Năng suất không phải là một khái niệm dễ dàng để xác định. Về cơ bản, năng suất là thước đo hiệu quả biến đầu vào thành đầu ra, dựa trên các công nghệ và mô hình kinh doanh mới, lực lượng lao động có năng lực, trình độ, và quản lý hiệu quả doanh nghiệp/tổ chức.
Báo cáo của Ủy ban Năng suất cho thấy “Tăng trưởng năng suất và sự tăng trưởng về thu nhập quốc gia có liên quan chặt chẽ trong một thời gian dài đã chậm lại”. Khắp OECD, tăng trưởng GDP [tổng sản phẩm quốc nội] mỗi giờ làm việc thấp hơn trong thập kỷ 2006-2016 hơn bất kỳ thập kỷ nào từ năm 1950 “.
Mặc dù đã có nhiều cuộc tranh luận và phân tích, nhưng điều gì đã làm tăng trưởng năng suất chậm lại ở Úc và các nước trên thế giới? Có hai lời giải thích cho sự suy giảm năng suất đã được đưa ra.
Thứ nhất, Robert Gordon tuyên bố rằng những đổi mới ngày nay không thể so sánh về quy mô hoặc tác động so với những bước đột phá trong những năm 1990, chứ chưa kể đến làn sóng biến đổi trước đó đã đem đến điện, điện thoại, truyền hình và máy bay. Việc thiếu những đổi mới tác động sâu rộng đến nền kinh tế trong vài năm qua chính là vấn đề.
Trái với quan điểm này, Erik Brynjolfsson cho rằng có sự gián đoạn công nghệ ít nhất là về quy mô so với thời kỳ trước đó nhưng vẫn chưa thể hiện được tác động đầy đủ của nó, đòi hỏi phải có “một loạt các sáng kiến bổ sung, giống như trong cuộc cách mạng công nghiệp: đầu tư vào giáo dục, tổ chức lại công việc, các chính sách mới “. Đặc biệt, ông tiên đoán “công nghệ cốt lõi của trí tuệ nhân tạo và kết hợp nó với kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới”. Những người khác đồng ý rằng “nền kinh tế kỹ thuật số mới vẫn đang trong giai đoạn cài đặt và tác động về năng suất chỉ có thể xảy ra khi công nghệ bước vào giai đoạn triển khai”.
Thứ hai, có ý kiến cho rằng dù có sự chuyển đổi hiệu quả năng suất do thay đổi công nghệ, nó có thể không được phản ánh trong các số liệu thống kê do thiếu sót về đo lường. Ví dụ, vai trò của internet trong việc thay đổi cách chúng ta giao tiếp, thu thập dữ liệu và cung cấp các dịch vụ chỉ đơn giản là không được đo đạc bởi các biện pháp truyền thống. Bất cứ công cụ đo lường nào được thông qua, việc cải cách tăng năng suất sẽ là động lực chính cho tăng trưởng và việc làm lâu dài. Nó sẽ cho phép chúng ta cạnh tranh trên toàn cầu không chỉ về chi phí mà còn về chất lượng, thiết kế và đổi mới là điều kiện khung của một mức lương cao, nền kinh tế năng suất cao.
Ở Úc, bộ trưởng kinh tế cho biết các doanh nghiệp “đổi mới hoạt động” có khả năng tăng lợi nhuận cao gấp 40%, có khả năng xuất khẩu gấp đôi, và có khả năng chứng minh năng suất lao động và việc làm cao gấp hai đến ba lần.
Tuy nhiên, sự đổi mới đã trở nên kém đi, giống như năng suất trong quá khứ. Cách đây không lâu, năng suất đã được xem là công cụ để khuyến khích người ta làm việc chăm chỉ hơn, khi mà bản chất là làm việc thông minh hơn. Bây giờ đổi mới đang phần nào đó bị chống do có những ý kiến cho rằng điều đó sẽ hủy hoàn toàn việc làm. Mặc dù điều này có thể đúng trong một số trường hợp cụ thể, nhưng nó cũng góp phần tạo công ăn việc làm, giống như những phát kiến diễn ra trước đây vẫn tạo ra công việc cho con người.
Văn phòng NSCL biên dịch